Nguyễn Ngọc Đường
|
Quê tôi Thái Nguyên, nơi tôi chào đời, thuở xa xưa là một tỉnh nhỏ thuộc miền Trung du Bắc bộ, cách Thủ đô Hà Nội 75km về phía Bắc. Cả tỉnh chỉ có một cái Chợ, hai cái Đình, một Nhà Thờ và vài cái Chùa nằm rải rác trong những khu vực đông dân cư. Các cơ quan của Nhà Nước như Toà Sứ, Kho Bạc, Trại lính, Nhà Thương...v...v... đều được tập trung trong thị xã và toạ lạc tại những con đường chính như Paul Bert, Carnot, Bắc kạn... Cư dân trong tỉnh thưa thớt thuộc nhiều sắc tộc như Thổ, Mán, Nùng, Tày, Dao...nhưng người Kinh vẫn chiếm đa số. Mọi người đã sống hiền hoà, an bình với nhau từ bao đời như con sông Cầu thơ mộng, uốn khúc chẩy êm đềm sát bên thị xã. Thái Nguyên, năm 1939 chỉ có hai trường tiểu học. Trường Nam có tên René Robin và Trường nữ được gọi là trường Con Gái. Chú tôi tên Nguyễn đức Nghi, nguyên tốt nghiệp trường Sư Phạm Hà Nội, vóc dáng nhỏ con, da ngăm ngăm đen, tính nghiêm khắc, dạy lớp Nhất kiêm chức Hiệu trưởng trường Nam. Ba tôi tên Nguyễn văn Sắc chỉ có bằng tiểu học, người to béo, tính dễ dãi thoải mái dạy lớp Ba. Còn quí Thầy dạy các lớp khác là Thầy Ân, Thầy Hoàn, Thầy Hảo, Thầy Uông và Thầy Tụng. Học trò thời Tây rất tinh nghịch và hay phá phách ngầm tuy vẫn nể sợ các Thầy vì ngán bị ăn đòn bằng roi mây quắn đít. Hồi đó tuỳ theo dáng dấp và tính nết của các Thầy, học trò lén làm bài vè để giễu cợt : Nghi đen,Tụng mốc, Uông sề, Sắc tròn, Hảo vẩu, Hoàn dê, Ân còm. Gia đình tôi gồm bà Ngoại, Ba Mẹ, chị Vân và tôi, thêm một người làm còn trẻ. Ba Mẹ quê quán ở tỉnh Bắc Ninh, vốn cùng là nhà Giáo nhưng khi lập gia đình thì chỉ có Ba là còn dạy học. Gia đình lên lập nghiệp ở Thái Nguyên từ bao giờ tôi không được rõ nhưng căn nhà chúng tôi ở là của bà Ngoại mua tặng cho Ba Mẹ để làm tài sản sau này. Hàng tuần cứ đến những ngày nghỉ như Thứ Bảy, Chủ Nhật hay ngày Lễ, công chức mọi ngành thường tụ họp lại với nhau. Người có máu đỏ đen thì đánh bài, nếu không thì chơi thể thao hay đọc sách báo để giải trí. Chỗ họp mặt là những nơi công cộng như séc Tây, séc Ta, các Câu lạc bộ hay tại nhà riêng tuỳ theo từng nhóm bạn bè. Các bà thì được thong thả hơn vì không phải đi làm. Buổi sáng sau khi chồng đến sở, quí bà đưa tiền chợ cho các cậu bếp, cô sen để lo cho con cái còn nhỏ chưa đi học và hai bữa cơm hàng ngày rồi kéo nhau đi tìm chỗ đánh Chắn, một loại bài đặc biệt của dân miền Bắc. Năm đó tôi học lớp Ba trường René Robin và chị Vân học lớp Nhất trường Con Gái. Nhà ở cạnh Đình Hàng Phố, cách trường chỉ vài trăm mét nên đi bộ đến trường rất thoải mái. Ba dạy lớp ba cũng đến trường bằng lô ca chân nhưng không bao giờ hai bố con cùng xuất hành một lúc cả vì... dị ứng. Ở trong lớp, tôi bị ép phải ngồi hàng đầu để Ba dễ canh chừng, không nhúc nhích cục cựa gì được cả. Viết Dictée là món tôi ngán lắm, lần nào cũng bị 5,6 lỗi và thỉnh thoảng lại được ăn roi mây quắn đít. Ba có những bài soạn sẵn để dạy như Dictée, Composition...được cất ở một chỗ bí mật trong nhà nhưng tôi cũng khám phá ra. Thật sung sướng như bắt được vàng khi vớ được những bài mẫu như thế. Tôi bèn học thuộc lòng những chữ khó và nhét thêm những câu văn hay một cách khéo léo vào bài luận văn của mình cho nặng ký. Nhưng khi chấm bài chắc Ba cũng biết vì giữa những câu dở ẹc lại xen kẽ vào những câu thật toàn hảo. Ba vốn tính dễ dãi, mau quên nên cũng không nhớ được hết. Viết đến đây tôi lại nhớ đến một câu chuyện vui vui về đạo Nhạc: "Một đệ tử đưa bản nhạc mới sáng tác cho Thầy đánh giá.Thầy khen nức nở, bản nhạc của anh thật là vừa Hay lại vừa Lạ. Mới nghe đến đây mặt anh đã hơi đỏ và mũi như... nở ra. Thầy nói tiếp, nhưng tiếc thay những chỗ Hay thì không... Lạ và những chỗ Lạ lại không... Hay. Thế là mặt anh chợt tái đi và cái mũi lại xẹp xuống như thường lệ". Tôi có tật ham ăn từ thuở nhỏ nhưng túi lúc nào cũng xẹp lép. Ba Mẹ vì mê đánh bài nên ít khi cho tiền chị em chúng tôi để ăn quà vặt. Chị Vân là con gái cưng nên Mẹ ưu ái hơn, thỉnh thoảng cũng dúi cho vài xu. Tôi vì không được may mắn nên đành phải tự xoay xở. Ngoài nghề đánh đáo, đá cầu ăn tiền, tôi có thêm một nghề nữa là.. ăn cắp vặt. Buổi trưa chờ Ba ngủ, lẻn vào buồng mắc quần áo, lục các túi xem có để sót xu nào không, thường thì kết quả khả quan vì tiền lẻ của hội viên cờ bạc lúc nào chả có và nếu mất cũng không biết mất ở đâu. Ba vốn người to béo, hai bàn tay rất bự, có tiếng về vụ đánh học trò bằng bạt tai nhất là vào những hôm thứ hai nếu đêm hôm Chủ nhật bị thua đậm về Mạt chược. Hôm đó đứa nào không thuộc bài sẽ bị hành hạ kiểu rất lạ: nằm dưới gầm bàn Thầy giáo và ở vị thế chổng mông. Ba bèn gác 2 chân lên lưng rồi ngủ gà ngủ gật cho đến hết giờ. Ba là anh ruột của ông Hiệu trưởng nên cũng được nể trọng và nhân nhượng hơn các Thầy khác. "Vài nét sinh hoạt của thị xã Thái Nguyên" *Chợ Phiên_ Hàng tháng, thị xã Thái Nguyên có môt phiên chợ chính, họp vào một ngày nhất định mà tôi không nhớ rõ. Tuy nhiên, vui và hấp dẫn nhất phải là phiên chợ cuối năm. Bài thơ Chợ Tết của Đoàn văn Cừ cho đến nay vẫn là bài đã diễn tả phong phú, đầy đủ chi tiết và sống động hơn cả. Thái Nguyên, dân cư ngoài người Kinh thường sinh sống ở Thị xã, còn gồm nhiều thành phần dân tộc thiểu số, họp thành những bộ lạc hay những nhóm nhỏ có cùng phong tục tập quán, sống rải rác ở những chỗ hoang vu ít người như trên núi cao hoặc vào sâu trong rừng thẳm. Đêm hôm trước ngày họp chợ, họ từ các nơi xa xôi trở về thị xã, nằm ngủ la liệt ở các vỉa hè, vườn hoa, đình chùa...với những hàng hoá lỉnh kỉnh, hỗn tạp như: măng, mộc nhĩ, nấm hương, củ nâu... Mờ sáng hôm sau, họ lũ lượt kéo nhau ra chợ với xiêm y thêu thùa sặc sỡ, vòng kiềng, bông tai... sáng chói, mỗi sắc tộc trang phục lại khác nhau, trăm hoa đua nở, mỗi người mỗi vẻ trông thật trẻ trung, mát mắt. Những thiếu nữ người Thổ chân bự như chân voi, vì phải leo núi suốt ngày, hay những cô Thái trắng chân dài, da trắng bóc, mắt sáng long lanh đen như hạt huyền tụ lại, dắt tay nhau vừa múa vừa hát líu lo gọi là hát Lượn rất vui nhộn. Tuy nhiên những người đứng thưởng thức chung quanh thì mặt lại thộn ra như Mán nghe kèn Tầu vì có hiểu gì đâu. Các chú lính, cậu bếp, sán lại gần để tán tỉnh, dụ dỗ...nhưng lúc nào cũng phải coi chừng cái món Ma Gà và Bùa Ngải của các nàng, có thể mất mạng như chơi. Thổ mừ, Thái trắng anh ơi Cô nào cũng đẹp anh thời yêu ai Yêu ai xin chớ đùa dai Thổ mừ nó giận...Thư hai con Gà. _Chú thích: Ma Gà nó ghê lắm, bị Thư một con vào bụng thì chỉ đau khổ, nếu bị hai con thì được...lên Bàn Thờ ngay đấy. Quí vị muốn nghiên cứu về các loại Ma như Ma gà, Ma xó, Ma trành... thì tìm đọc trong những truyện Đường Rừng của Lan Khai, Tchya...là đủ hết. Đặc biệt về "Ma femme" thì chỉ cần đọc đoạn tếu dưới đây của Thầy Sugar là đạt yêu cầu rồi. *Tản mạn về Ma femme - Trong một bữa tiệc không có đàn bà, nhưng có đủ các ông đại diện cho mọi ngành nghề trong xã hội. Sau khi ăn uống no say các ông đề nghị bầu một ngành nghề nào có tiếng là sợ vợ nhất trong xã hội. Sau khi lựa chọn cẩn thận, cuối cùng nghề Thầy Giáo được bầu là hạng nhất vì có giai thoại như sau: "Có một Thầy giáo khả kính, bữa nọ đi đánh Mạt chược, mãi đến khuya mới bò về nhà. Tới trước cửa Thầy bèn gõ nhè nhẹ 3 tiếng rồi liền quì ngay xuống bậc cửa và kiên nhẫn chờ...Một lúc sau vợ ra mở cửa chỉ lườm Thầy một cái rồi thì mọi chuyện đều...êm thấm". Thế nà thế lào? Thì ra mọi đêm, Thầy về gõ cửa ầm ầm rồi đứng hút thuốc phây phây. Giường ngủ gần ngay đó, bà nhìn qua khe cửa thấy phát ghét cho đứng chờ tới sáng luôn. Lần sau, Thầy rút kinh nghiệm không dám gõ mạnh nữa nhưng vưỡn đứng hút thuốc vi vút. Bà bèn bổn cũ soạn lại, để Thầy đến trường đánh răng rửa mặt luôn cho đỡ tốn nước. Lần này thì Thầy thấm đòn và ngộ ra là phải... quì thì mới qua lơ phai (qualified) chăng? Và quả đúng như vậy, bà Giáo liếc qua khe cửa thấy mặt thầy dài ra bèn tội nghiệp cho vào nhà sớm để Thầy... kịp giờ đi dạy. *Hội chợ Ấu trĩ viên (kermesse) - Năm đó Thị xã Thái Nguyên mở Hội Chợ tại Ấu trĩ viên để gây quĩ từ thiện. Cái đinh của Hội chợ là ngày khai mạc do quan Công sứ chủ toạ. Một cái rạp bằng lá gồi rộng rãi, khang trang được dựng lên sát ngay sân tennis. Những cái chòi nho nhỏ cũng được dựng sơ sài để dành cho các Cụ ngồi chơi Tổ tôm điếm và đánh cờ Người (quân cờ là người thật). Các Cô giáo của trường Con Gái thật bận rộn, vất vả. Ngoài việc phải trổ tài nấu nướng đủ loại món ăn Tây, Tầu, Ta để phục vụ các quan, còn phải trang hoàng rạp bằng hoa lá cành với sự tiếp tay của các Thầy giáo sao cho các quan vừa lòng. Đặc biệt nhất là quan Phủ, quan Huyện, quan Kiểm học và dĩ nhiên cả quí vị Hiệu trường trường Nam và trường Nữ. Thế rồi ngày khai mạc đã tới, các quan đều âu phục chỉnh tề, các bà, các cô thì ngoài vòng vàng, cẩm thạch...đa số đều mặc áo dài truyền thống, tất cả sẵn sàng chờ đón quan Công sứ đến khai mạc Hội chợ. Sau phần nghi thức và diễn văn khai mạc, mọi người đều đứng dậy, trò chuyện, bàn tán về các mục vui chơi, rồi ngay sau đó được ban tiếp tân mời vào bàn ăn trong rạp và sâm banh bắt đầu nổ như pháo Tết. Các Cô giáo xinh như mộng, chỉ cỡ trên dưới 20 tuổi, dáng vẻ thanh tú đi lại mời mọc, miệng tươi như hoa làm quan Công sứ ngây ngất. Bỗng quan nói nhỏ với quan Tuần....rồi quan Tuần lại đi tìm bà Hiệu trưởng ghé tai thầm thì.... Thì ra quan Công sứ đã chấm Cô giáo T, hoa khôi của thị xã, và xin được Hôn cô theo phép lịch sự Tây phương. Bà Hiệu trưởng phải năn nỉ, vừa hứa hẹn vừa doạ dẫm Cô T mới chịu nhưng với điều kiện là phải hôn kiểu Ta chứ Cô hổng chịu kiểu Tây. Quan Công sứ cũng đành phải chiều Cô vì nhập gia tuỳ tục mà! Đại khái nó diễn tiến như thế này: Quan chỉ được hôn nhẹ trên má Cô, hai tay phải để thõng xuống, không được quờ quạng, cái đầu Quan hơi nghiêng xuống vì Cô không cho đứng gần. Chao ôi mấy cọng râu xồm của Quan mà cọ vào má của nàng chắc là... nhột lắm. Khổ nỗi cái mục hôn này lại diễn ra trên sân khấu ngay trước mặt bá quan văn võ và thần dân làm tôi nổi máu nghĩa hiệp lên, dù lúc đó vưỡn còn... con nít, chỉ muốn tặng Quan một cái đá đít. Lý do vì tội nghiệp Cô giáo quá, má Cô hơi ửng hồng trông lại càng đẹp và mắt như muốn... đẫm lệ. Quan Tây còn đang mê mẩn thì Cô đã ù té chạy vào bên trong rạp và nhất định không chịu ra tiếp tân nữa. Từ bữa đó tôi ghét Tây dễ sợ dù cơm Tây thì... vưỡn ăn, không biết tại sao!. Bây giờ tôi mới ngộ ra là trong thời gian theo đoàn Văn nghệ, tôi chuyên trị đóng vai Tây chết, một phần vì dở không đóng vai khác được, phần nữa chắc là để...trả thù Tây cho bõ ghét. Thế ra cái sự hận thù nó đã nằm sẵn trong tiềm thức rồi và chỉ chờ có dịp là xông ngay ra. *Văn nghệ_ Nhờ có chút khiếu về âm nhạc, năm 7, 8 tuổi tôi đã đánh đàn mandoline khá giỏi và hoàn toàn tự học. Ngoài ra, tôi còn thuộc rất nhiều bài hát nhất là các bài tình ca lãng mạn và hát rất đúng giọng, đúng nhịp nhưng có khuyết điểm là hơi không được dài. Năm đó Ba được gửi đi tham dự lớp Huấn luyện viên Thể dục ở Phan Thiết và Thầy Hàm được đổi về dạy thế lớp Ba. Thầy Hàm, tính vui vẻ, dễ thương, rất thân thiện với học trò và là một huynh trưởng Hướng Đạo. Thầy giỏi đàn hát và thường viết những vở Kịch ngắn cho chúng tôi tập trình diễn. "Trois jeunes tambours" - Vở kịch được hát lên bằng tiếng Pháp, nói về 3 chàng lính đánh trống đi kiếm vợ. Chàng đứng giữa là vai chính và xin hỏi Công chúa, con Vua làm vợ. Vở Kịch được viết dưới hình thức Thoại kịch giữa 3 nhân vật: Vua, Công chúa và chàng Rể tương lai. Tuy nhiên những câu đối thoại, khi hát lên phải kèm theo với những điệu bộ cho thích hợp. Tất cả các diễn viên đều là Sói con và Công chúa là nam giả nữ. Tôi vốn không có khiếu về Kịch tuy nhiên trong màn trình diễn này lại được lựa đóng vai chính là chàng Rể vì 2 lý do: hát hay và là con Thầy giáo. *Gay?_ Ở màn cuối của vở Kịch, chàng Rể được quỳ xuống hôn tay Công chúa, thật cảm động và sung sướng...thứ thiệt. Công chúa giả hôm đó đẹp tuyệt trần, không biết ai đã trang điểm cho nàng, hai cái má bánh đúc cứ phinh phính ra trông thật xinh dễ sợ. Anh bạn đóng vai này tên Q, bằng tuổi tôi, hiện còn sống ở Hà nội. Từ bữa đó tôi mê Q thật, lúc ra chơi, khi đi cắm trại, lúc tập đàn...luôn luôn tôi ở bên cạnh Q. Lâu không thấy mặt thì nhớ cứ y như tương tư vậy. Nhưng hồi đó mới 7,8 tuổi đã biết...yêu đâu, chỉ cảm thấy khi xa nhau thì buồn nhớ vớ vẩn mà không biết tại sao. Có thể gọi là Gay được không? nếu đúng thì tại sao bây giờ tôi lại vợ con đề huề? *Bồng lai Tiên cảnh- Thầy Hàm viết một Nhạc cảnh về Bồng lai nơi có các tiên nữ múa hát với xiêm y rực rỡ. Các diễn viên phải nhờ gia đình, bà con đi mượn quần áo của đám con gái trong tỉnh để chuẩn bị tập dượt. May quá cạnh nhà tôi là nhà ông Phán toà Sứ có cô con gái cùng cỡ tuổi nên được cho mượn dễ dàng. Các diễn viên phải tự lo liệu về y phục và nhờ người nhà trang điểm, phấn son đàng hoàng rồi mới kéo nhau đến trường để tập. Riêng tôi thì được chính cô con gái ông Phán trang điểm, cũng cảm thấy thích thú vui vui. Có một chi tiết khá ngộ nghĩnh là các Tiên nữ trong khi múa hát đều không mặc đồ lót vì...có ai dám cho mượn đâu. Các cô gái mắc cỡ, chỉ lén đưa cho cái quần còn cái món kia thì eo ôi, ghê quá nhất định không cho mượn. Cũng may thời gian đó con gái ít mặc váy, nếu các tiên nữ múa hát mà váy lại tung bay trước những cái quạt thì hấp dẫn lắm, có khi khủng khiếp quá khán giả bỏ chảy hết thì tan tuồng. Hồi đó con trai còn nhỏ, đi học thường cũng chỉ mặc quần đùi, trời lạnh thì quần dài và không có đồ lót. Rồi thì mọi sự cũng qua đi và buổi trình diễn nhờ... y trang lạ mắt nên được khán giả tán thưởng nồng nhiệt. Hôm sau đáng lẽ phải đem trả quần áo cho cô gái thì tôi lại kiếm cớ không trả ngay nói là để giặt sạch sẽ đã...thì cũng đúng thôi nhưng rồi cũng lần lữa thêm vài ngày nữa mới trả. Nói ra thật xấu hổ, thì ra tôi nhớ cái mùi xiêm y của cô gái, nó lạ lắm không thể diễn tả được chắc là mùi...con gái, đơn giản vậy thôi. *Thời oanh liệt - Năm 1943 Thầy Phạm duy Nhượng được đổi về trường René Robin và phụ trách dạy lớp Nhất. Tôi hân hạnh được học Thầy từ năm đó cho đến khi VM cướp chính quyền. Thời gian này đúng ra là thời oanh liệt nhất của tôi, vì Thầy và tôi lúc nào cũng có mặt trong các buổi hoà nhạc hay diễn kịch trong tỉnh. Lúc đó tôi 12 tuổi hãy còn con nít, và là người trẻ tuổi nhất trong ban nhạc. Trước khi vào đoạn chính của một bản nhạc thường có khúc dạo đầu( prelude) và tôi luôn là người đã đánh khúc đó bằng đàn mandoline, sau đó cả ban nhạc mới chơi vào bài chính. Ngoài các buổi hoà nhạc và diễn kịch chính thức có bán vé cho dân chúng để gây quỹ hoặc làm việc từ thiện, đám thanh thiếu niên mê nhạc thường tổ chức những buổi hoà nhạc bỏ túi ở nhà riêng cũng vui và hấp dẫn lắm. Lần nào cũng có màn cháo gà trước khi chia tay và riêng tôi thì rất khoái món này vì ở tuổi thiếu niên có lúc nào no đâu. Thầy Phạm duy Nhượng năm đó chừng 24, người cao ráo, dáng nghệ sỹ, nhưng thật đáng buồn vì miệng Thầy có tật hơi bị méo chắc do bẩm sinh. Thầy quê quán ở Hà Nội, là em của Thạc sỹ Phạm duy Khiêm và là anh của nhạc sỹ Phạm Duy ( Phạm duy Cẩn ). Thầy có bằng Tú Tài Tây phần thứ nhất, lúc đó là oai lắm rồi và đã có gia đình. Vợ Thầy đẹp và còn trẻ măng. Thầy rất nhiều tài: viết Kịch, sáng tác Nhạc, vẽ Tranh và kiêm luôn cả Đạo diễn. Ngoài ra Thầy còn hát và sở trường về môn Guitar thùng. Tính Thầy phóng khoáng, cởi mở. Thầy với tôi là cặp bài trùng, chỗ nào có hội hè, nhạc, kịch là có Thầy trò chúng tôi, thật là thời kỳ Thần tiên, nhiều kỷ niệm đẹp và không bao giờ tôi quên được. Sau khi tốt nghiệp bằng Tiểu học, chị Vân được gửi về quê nội ở tỉnh Bắc Ninh để theo học bậc Trung học. Hàng năm, mỗi kỳ nghỉ Hè, Chị lại trở về vui chơi với gia đình ở Thái Nguyên trong 3 tháng phù du. Khoảng thời gian này Cậu cho Chị đến học thêm với Thầy Nhượng về hai môn Pháp văn và Toán. Thái Nguyên là tỉnh nhỏ nên các thiếu nữ choai choai có chút nhan sắc đều được các cậu trai để ý và gán ghép cho nhau. Chị Vân lúc đó 16 tuổi, hát khá hay, truyền cảm thỉnh thoảng được Thầy đưa lên sân khấu trình diễn. Chị chuyên trị hát 2 bài Đêm Đông và Con Thuyền Không Bến thường làm các cậu trai cảm động. Tôi còn nhớ, cậu T hay nhờ tôi đưa thư tình cho Chị và mỗi lần thành công lại được cậu tặng 1 phong bánh đậu xanh thơm phức. Tính tôi tham ăn nên khai thác tối đa cái mục chuyển thư tình này. Thư của cậu nào tôi cũng tìm cách đưa hết cho Chị, không hề kỳ thị, nên các món ăn ngon như bánh cuốn Đồng mỗ, phở Bủng, kem...tôi đều được xơi hết, có khi các cậu còn tranh nhau rủ tôi đi ăn nữa. Hồi đó lũ học trò lớp Nhất, ngày nghỉ thường hay rủ nhau lại nhà Thầy để tập đàn, đánh cờ và để...ngắm Cô Giáo. Thầy tôi thật có phước, Cô đẹp não nùng, hiền như ma sơ và thường làm bánh đãi lũ học trò quỷ quái. Tôi nghĩ lại thật phục Thầy sát đất. Tuy Thầy có tật ở miệng, nhưng Thầy đàn hát tuyệt hay, ăn nói có duyên và cũng hơi tếu giống y trang học trò Thầy bây giờ. Thầy chiếm được trái tim của Cô, một thiếu nữ tuyệt sắc như vậy thì đúng là có duyên số mí nhau ghê lắm đấy. Nhưng than ôi, có Hạnh phúc nào là trọn vẹn đâu, hồng nhan thường...bạc mệnh. Sau ngày 19/8/45, Thầy trò chia tay nhau và mãi đến giữa năm 1947, chúng tôi mới gập lại thì Cô đã ra người thiên cổ vì bệnh thương hàn mắc gió để lại cho Thầy một đứa con trai mồ côi Mẹ và... đó là chuyện về sau. *Lưu Bình-Dương Lễ - Thầy mới viết xong vở kịch Lưu Bình Dương Lễ sẽ đem trình diễn trên sân khấu trong tỉnh và chúng tôi bắt đầu phải tập dượt. Cốt truyện đại khái như sau: Dương Lễ và Lưu Bình là bạn đồng môn, đến khi đi thi, Dương Lễ trúng tuyển còn Lưu Bình bị vỏ chuối nên thất chí, tinh thần xuống dốc. Dương Lễ thương bạn, âm thầm cho người thiếp trẻ đẹp là Châu Long đến nuôi và nâng đỡ tinh thần để Lưu Bình tiếp tục đèn sách cho đến khi thi đậu. Trong suốt thời gian luyện thi, Lưu Bình và Châu Long chung sống với nhau dưới một mái nhà nhưng riêng phòng, thỉnh thoảng cũng có chuyện vớ vẩn nhưng Châu Long cương quyết giữ kỷ luật nên mọi sự đều tốt đẹp cho đến phút chót. Sau khi bảng vàng sáng chói, Lưu Bình định xin cưới người đẹp thì Nàng đã khăn gói lặng lẽ trở về nhà chồng từ lúc nào rồi. Chuyện này đề cao Tình Bạn và lòng chung thuỷ của người Vợ. Vở Nhạc Kịch gồm 3 vai quan trọng: Lưu Bình, Dương Lễ và Châu Long nhưng 2 vai nổi bật là Lưu Bình và Châu Long vì phải diễn xuất nhiều nhất. Anh bạn Q đẹp trai được giả gái đóng vai Châu Long, một bạn khác có ngoại hình dong dỏng, tốt mã được chọn đóng vai Lưu Bình làm tôi nổi máu Hoạn Thư, ghen...khủng khiếp. Tôi bị trượt vì thiếu thước tấc, thư sinh phải nho nhã, cao ráo mà tôi thì lùn tịt chỉ ngang ngửa với Châu Long thôi, mặc dù hát hay nhưng diễn xuất lại dở ẹc thì vỏ chuối là đúng dzồi. *Tuần lễ vàng - Ngày 19/8/45, VM cướp chính quyền, lúc đó trường tiểu học René Robin được đổi thành trường trung học Lương ngọc Quyến, đã có lớp đệ Thất đầu tiên do Thầy Nhượng phụ trách. Thời gian này tôi hăng hái xách đàn mandoline đi các lớp để hướng dẫn các Thầy trò tập hát các bài Tiến quân ca, Diệt phát xít, Uất hận...vung vít chẳng hề biết đến chính chị chính em gì cả. Sau đó ít lâu, tuần lễ Vàng được mở ra cho nhân dân có dịp mở hầu bao giúp Nhà nước đủ phương tiện để Trường kỳ kháng chiến sau này. Tuần lễ Vàng được tổ chức ngay tại Chợ để đồng bào hàng ngày khi đi chợ, ghé qua bỏ những vòng vàng, nhẫn vàng, cẩm thạch...vào những thùng đặt sẵn tại các nơi thuận tiện và dĩ nhiên phải có người canh gác cẩn thận. Các ban nhạc trong đó có tôi, được khai thác triệt để, từ sáng sớm đến tối mịt mới được về, đúng là cơm nhà vác ngà voi. Ba tôi tuy chỉ là Thầy giáo quèn nhưng lại hay giao du thân mật với các quan lớn nên cũng sợ bóng sợ gió. Ba mẹ bèn bàn tính bán nhà cho gia đình cô em dâu để di tản về Hà Nội cho an toàn. Lúc đó tôi đã 14 tuổi, khá lớn dễ bị lôi kéo vào bộ đội nên Ba gửi tôi về quê nội ở Bắc Ninh nằm chờ sẵn cho chắc ăn. *Thái Nguyên vùng trời kỷ niệm - Vài tháng sau, gia đình tôi lúc đó đã có thêm một em trai, tất cả âm thầm lên xe để về Thủ đô Hà Nội. Một cuộc sống mới đã mở ra và gia đình bắt đầu phải vất vả, sinh sống với số vốn ít ỏi là tiền bán nhà, chắc cũng chẳng được bao nhiêu vì đã phải bán cấp tốc. Một buổi sáng ảm đạm, tôi theo người nhà lên xe đò từ Bắc Ninh sang Hà Nội để về gập lại gia đình. Chuyến xe đi qua một cái cầu, bên dưới là con sông Đuống lững lờ trôi, nơi đã diễn ra bao kịch bản bi thương mà thi sỹ Hoàng Cầm đã ghi lại trong một bài thơ tình cảm nổi tiếng : "Bên kia sông Đuống" trong tập thơ "Về Kinh Bắc" năm xưa. Tôi còn nhớ, buổi sáng hôm đó từ làng Yên Mẫn theo người chị họ ra cửa Hậu để đón xe, lòng buồn vời vợi và nhớ miên man nhưng cũng chẳng biết nhớ cái gì. Thật ra chỉ là một mớ hỗn độn trong đầu một thiếu niên ngây thơ tuổi 14 : nào là hai cái má bánh đúc dễ thương của bạn Q đẹp trai, nào là cái mùi hương thoang thoảng bay ra từ áo quần của cô gái con ông Phán, rồi những bức thư tình của các cậu trai gửi cho Chị Vân, gợi nhớ đến những phong bánh đậu xanh thơm phức mà tôi đã thưởng thức và còn...nhiều nữa. Lúc ngồi trên xe, đang suy nghĩ lan man về tương lai mình ...que sera...sera... thì tự nhiên tôi bật khóc và khóc mùi mẩn vì linh cảm thấy là từ nay tôi thật sự đã phải xa Thái Nguyên yêu dấu, một vùng trời đầy kỷ niệm thân thương của “Những ngày thơ ấu ” Tỉnh Thái quê tôi, cảnh hữu tình, Sông Cầu gợn sóng, buổi bình minh. Trên bến dưới thuyền vui như Hội, Thổ, Mán,Tày, Kinh... sống thái bình. Nguyễn ngọc Đường (Hồi ký) Ps _ Bài viết này được trích đoạn trong bài Hồi ký có tựa đề "Những ngày thơ ấu".
|