Happy Valentine's Day
Chúc Mừng Lễ Tình Yêu Ngày lễ hội Tình Ái Valentine
Ngày lễ hội Tình Ái Valentine của Tây Phương là ngày 14 tháng Hai dương lịch . Cái lý thú là dù ở Đông phương hay Tây phương : Nhân loại luôn luôn gặp nhau ở điểm lấy MÙA XUÂN LÀ MÙA CỦA YÊU ĐƯƠNG
Mỗi năm vào lúc này là khởi điểm của mùa xuân với:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
và nhất là mùa ân ái của vạn vật cỏ cây, của chim chóc và sâu bọ.
Đúng vậy, Tiết xuân về là lúc khiến nàng chinh phụ Việt Nam ở hậu phương rạo rực nhớ chồng ở tiền tuyến hơn cả:
Chàng thấy chăng chim uyên ở nội,
Cũng dập dìu chẳng vội phân trương.
Chàng xem chim yến trên rường
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau ?
Nên nàng mới oán trách nhẹ cho hoàn cảnh phải chia lìa đôi lứa:
Ấy loài vật, tình duyên còn thế sao kiếp người nỡ để đấy đây ?
Và cái cảm giác nghe rạo rực khó chịu và quạnh quẽ của người thiếu nữ khi nhớ người yêu thật là dễ hiểu, nếu ta tìm vào những vần thơ của nhà thơ Xuân Diệu:
Mùa xuân khó chịu quá đi thôi.
Cảnh đẹp làm em thấy lẻ loi,
Chim hót xui em nghe quạnh quẽ
Hay là anh đã bỏ em rồi ?
( bài Đơn sơ - Xuân Diệu)
Nếu chúng ta dở lại thơ Đường của Trung Hoa, thì chắc thế nào chúng ta tìm thấy một ý thơ tương tự nhỉ? Hãy đọc lại bài thơ của Vương Xương Linh mà xem, bài thơ này tả tâm tình của một thiếu phụ trè còn thơ ngây bỗng nhớ đến chồng:
Vào một ngày mùa xuân nào đó, nàng bổng cảm thấy buồn buồn vô cớ, làm biếng lấy son phấn điểm trang làm đẹp mà nàng lại bước lên lầu nhìn ra những cành liễu rủ ở bờ đề để rồi hối hận tại sao mình đã dại dột xúi chồng dấn thân vào võ nghiệp mà kiếm ấn công hầu, bỏ bê không cùng hưởng tuổi thanh xuân bên cạnh nhau.
Khuê oán của Vương Xương Linh
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thượng thuý lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Mà ông Ngô Tất Tố dịch ra thơ Việt như sau:
Nỗi oán trong phòng khuê
Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.
Chỉ có 4 câu 28 chữ mà chất chứa bao nhiêu tình ý. Thơ Đường quả là hay.
Bây giờ chúng ta hãy trở lại đề tài ngày lễ hội Tình Yêu hay Valentine mà mình tạm dịch với bao nhiêu là danh từ bay bướm trữ tình như là Ngày của những kẻ yêu nhau, Ngày Tình Ái, Ngày Nguyệt Lão, Ngày Tơ duyên v.v…
Theo thống kê của The Greeting Card Association, thì trong số một tỉ thiếp Valentine có khoảng 85% do phụ nữ mua. Kể ra không có gì lạ vì phụ nữ bao giờ cũng trữ tình hơn nam giới!
Bây giờ, chúng ta hãy tìm hiểu về Điển tích của ngày Valentine hay lễ hội Uyên Ương ân ái Valentine là tên của một vị thánh mà trong điển ngữ của Công giáo, có đến 30 thánh nhân mang tên Valentine. Như vậy Valentine nào là quan thầy của Tình Ái ?
Theo truyền thuyết, Valentine này là một linh mục dưới triều hoàng đế La mã Claudius II vào năm 270 CN. Hoàng đế này thấy rằng những trai tơ trong quân đội chiến đấu hăng hái hơn những lính đã có vợ con nên ông ra sắc lệnh nghiêm cấm lính độc thân lấy vợ ! Valentine thấy lệnh này bất công nên ông thường làm lễ hôn phối lén lút cho những lính trai tơ. Sự việc vỡ lỡ, Valentine bị cầm tù để xử tử.
Nhưng lại có một truyền thuyết nói rằng linh mục Valentine là người đầu tiên tự tay gửi tấm Thiếp Valentine. Trong thời gian cầm tù, linh mục đã yêu nàng con gái mù là con gái của người quản lao thường đến thăm viếng vỗ về ông rồi nhờ một phép lạ mắt cô sáng lại . Trước khi ra pháp trường, ông đã viết một lá thư với câu From Your Valentine ( Từ tay Valentine gửi đến cho Em) Câu này mãi đến hiện nay người ta vẫn thịnh hành áp dụng.
Sự tích đại khái mù mờ như vậy nhưng nghe nói tính chất hào hùng và lãng mạn của câu chuyện tạo nên tên Valentine là một trong những thánh nhân được hâm mộ nhất thời Trung cổ tại Anh và Pháp. Và chắc còn nhiều truyền thuyết khác.
Một truyền thuyết khác đã giải thích là ý niệm về ngày Valentine đã khởi sự từ lâu vào cổ thời của Đế quốc La mã:
Ngày 14 tháng Hai là ngày vinh danh Nữ thần Juno hay còn gọi Lupercalia là Nữ Chúa của toàn thể thần linh La mã nhưng cũng đặc biệt là thần hộ mạng của phụ nữ và hôn nhân.
Qua ngày 15 tháng Hai là ngày lễ hội đầu xuân Lupercalia : vào ngày này có phong tục là viết tên bao nhiêu gái đồng trinh La mã trên những tờ thăm bỏ vào một cái bình lớn rồi để cho lũ trai tơ La mã bốc hên xui chọn ra một người nữ làm bạn đồng hành vui chơi trong dịp lễ.
Sự cặp đôi này còn kéo dài trong suốt một năm và thông thường thì họ kết hôn với nhau.
Cũng nói rõ thêm ngày rằm tháng Hai theo lịch La mã là ngày dân La Mã mở hội mừng xuân mới nên cửa nhà được quét dọn và rắc muối cùng rải những hạt giống lúa mạch khắp trong nhà như là một hình thức tôn kính thần Faunus coi về việc canh nông. Vào dịp này, những thầy tư tế La mã lại giết một con dê cầu cho sự phì nhiêu và một con chó để tẩy uế. Lũ trai tơ bèn xẻo những miếng da dê rồi nhúng vào máu tế thần xong kéo nhau ra đường dùng những dải da dê trên quất nhẹ vào những người đàn bà con gái và những cánh đồng lúa. Lũ phụ nữ rất vui thích vì niềm tin sẽ sinh năm đẻ bẩy vuông tròn cũng như mùa màng sẽ gặt hái nhiều hơn.
Đó là lễ hội của thời La Mã còn thờ những vị phiếm thần ngoại giáo. Còn sự biến chuyển của hội Valentine từ khi thành lập giáo hội Công giáo sẽ mang ý nghĩa ra sao?
Mãi về sau, khi Giáo hội Công giáo đã chính thức thành lập, phong tục bốc thăm tìm vợ của thời La Mã ngoại giáo trong dịp hội đầu xuân Lupercalia được sát nhập hòa đồng vào sự tích linh mục tử đạo Valentine để trở thành ngày Valentine Tình ái hiện nay.
Nhìn lại văn hóa của nhân loại nói chung, từ Đông sang Tây cũng đều dựa vào biểu tượng tăng trưởng của mùa xuân và khuyến khích trai gái hãy yêu nhau đi mùa xuân tới rồi!. Chuyện lứa đôi kết hợp dù Đông hay Tây đều được quan niệm là vấn đề duyên phận rủi may, nhất là thân phận phụ nữ mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu. Những lá thăm xe duyên La mã nào khác gì những mối chỉ hôn nhân ràng buộc trai gái với nhau
Thánh Valentine Tình ái của Tây Phương tương đương với hình ảnh của Nguyệt lão Đông Phương!
Tình yêu là biến cố bỗng dưng xẫy đến , không tính toán, là một sư dâng hiến không điều kiện như bài thơ sau của thi sĩ Nguyễn đình Thư:
Tôi yêu là bởi tôi yêu,
Cầm tay cô hỏi tôi nhiều làm chi?
Khi yêu không đắn đo gì,
Phân phô chừ viết nói vì cớ sao.
Huống hồ yêu tự khi nào,
Hôm qua lòng thấy ngọt ngào mới hay.
Gạn gung mong cạn phơi bày
Họa chăng có một điều này đơn sơ
Thi sĩ Nguyễn đình Thư nói “một điều này đơn sơ” đó là gì? Đọc tiếp thì ông giải bầy như sao:
Thuyền tình đã gặp người đưa,
Giong khơi không lẽ đôi giờ rồi thôi!
Ý ông nói nói chuyện tình đâu chỉ có một hai tiếng đồng hồ phù du sao, mà còn nói về chuyện miên man đến cuối cuộc đời:
Tin nhau ai nói bằng lời,
Và mai ai biết xa vời bao nhiêu?
Một thương là sự đã liều,
Thì theo cho đến xế chiều chứ sao!
Bài thơ này do đó có tựa đề là “Đến Chiều” vậy.
Người ta hay nói “Yêu là cho hơn là nhận” nên “ Yêu là lỗ” nhưng mà : Không yêu thì Khổ”. Hãy tản mạn cái điều nghịch lý này bằng một tiếng thơ nào khác!
Hãy nghe bài Tình yêu thứ nhất của Xuân Diệu:
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Anh cho em , kèm với một lá thư
Em không lấy, và tình anh đã mất
Tình đã cho không lấy lại bao giờ!
Lá thư tỏ tình này theo tôi là một thầy thuốc viết còn khó hơn viết một luận án tốt nghiệp y khoa đó:
Thư thì mỏng như suốt đời mộng ảo,
Tình thì buồn như tất cả chia ly,
Giấy phong kỹ mang thầm trong túi áo,
Mãi trăm lần viết lại mới đưa đi.
Thế mà nàng ta không thèm đọc mà lại đem xé đi, thế mới đau khổ chừng mô:
Lòng e thẹn cũng theo tờ vụng dại,
Tới bên em, chờ đợi mãi không về.
Em đã xé…lòng non cùng giấy mới
“Mây đầy trời hôm ấy phũ sơn khê”
Kỷ niệm về Tình yêu thứ nhất tuy là vụng dại và có thể nói là thoáng qua và phai nhạt nhưng đối với Xuân Diệu vẫn là một cái gì nhớ mãi:
Tờ lá thắm đã lạc dòng u uất
Ánh mai soi cũng pha nhạt mầu ôi,
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất.
Anh cho em, nên anh đã mất rồi.
Người ta cũng thường ví “Yêu là một chứng bịnh ghê gớm đã hành hạ tim can của con người” Ví dụ như những vần thơ vụng dại của một chàng trai trẻ Mỹ gửi cho ý trung nhân:
You're on my mind most of the day
And at night I go to bed and pray
An angel soft and gentle as you
Would make my sweetest dreams come true.
Nào có khác gì những câu hát Việt nam thực thà sau:
Nhớ ai ra ngần vào ngơ
Như chực đống lửa như chờ đống than
Và đêm đêm trước khi ngũ chàng đã cầu nguyện:
Con quì lạy Chúa trên trời
Cho con lấy được cái người con yêu!
Căn bệnh tương tư là căn bệnh ngàn đời của nhân loại dù ở dưới gầm trời nào. Chúng hãy trở về với kho tàng cao dao của dân tộc Việt để tìm lại cái nỗi niềm yêu là khổ, là nhung nhớ, là nung nấu con người ra sao?
Mình về mình nhớ ta chăng,
Ta về, ta nhớ hàm răng mình cười.
Hàm răng này là hàm răng nhuộm đen của phụ nữ Việt, bóng và đều như hạt mãng cầu đã suốt mấy ngàn năm lịch sử từng là lụy những chàng trai.
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người tình nhân.
Người tình nhân, ta để trên cươi,
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ.
Đêm qua, ba bốn lần mơ,
Chiêm bao thì thấy, dậy rờ thì không!
Tình yêu ngàn đời vẫn làm cho con người đắm chìm trong những mộng mơ của hạnh phúc chung sống lứa đôi như bài ca dao sau:
Cái quạt mười tám cái nan,
Ở giữa phất giấy hai nan hai đầu.
Quạt này anh để che đầu,
Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này.
Ước gì chung mẹ chung thầy,
Đề em giữ cái quạt nầy làm than.
Rồi ta chung gối chung chăn,
Chung quần, chung áo chung khăn đội đầu.
Nằm thời chung cái giường tầu,
Dậy thời chung cả hộp trầu ống vôi
Ăn cơm chung cả một nồi,
Gội đầu chung cả dầu hồi nước hoa.
Chải đầu chung cái lược ngà,
Soi gương chung cả ngành hoa giắt đầu.
Đúng là chung sống, nên nhất nhất cái gì cũng xài chung. Chung chăn, chung gối, chung giường, chung mâm, chung thuốc đánh răng, chung tùm lum thứ nhưng hình như … chung quần, chung áo, chung đồ lót thì theo thực tế có thể có vấn đề ?
Mà khi yêu thì tha hồ mà vẽ ra bao nhiêu chuyện mộng mơ dù khó thực hiện, như câu nói sau đây của chàng trai:
Yêu em, tam tứ núi anh cũng trèo
Thất bát sông, anh cũng lội.
Cửu thập đèo, anh cũng qua
Câu chuyện Tình Ái và Mùa Xuân có lẽ còn rất dài, mà một buổi mạn đàm của chúng ta không thể bao quát hết được. Mùa Xuân còn kéo dài đến ba tháng, nên chúng ta còn nhiều buổi tản mạn sau.
BS Lê văn Lân
__________________